Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

Post Bài mới vào thứ hai 23-9-2013



Chúng tôi đã sửa lại đường nối mạng , bài mới sẽ bắt đầu post vào đầu tuần tới (thứ hai 23-9-2013)

Chúng tôi xin được nói thêm đôi dòng về bài học Phạn. Điểm khó của chúng ta là chưa quen cách viết, vì ngoài 49 mẫu tự cơ bản còn một sốn biến thể do kết hợp tự, và đôi luật nội biến (sandhi), biết qua được những cơ bản này, về sau chúng ta dễ dàng đọc được âm một bản viết bằng chữ Deva.
Sau đó còn phần ngữ pháp chúng ta sẽ tập làm quen dần, vì ngữ pháp Phạn tương đối khó nhận ra hơn tiếng Anh hoặc tiếng Hán. Nhưng cứ theo dõi dần dà cũng nhận được.
Mong rằng các bạn đang theo dõi những bài học này sẽ giúp chúng tôi đọc và soạn bài kỹ hơn.

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

Cách ngắt câu trong bài Tâm Kinh

Trước hết xin cảm tạ trang nhà đã có thêm mục Thảo Luận.
Trong quá trình học có một điểm Cao Tùng tôi đang thắc mắc:
Bài Tâm kinh Bát Nhã có câu sau:
觀自在菩薩。行深般若波羅蜜多時。照見五蘊皆空。度一切苦厄。

Khi dịch chúng ta nên ngắt câu thế nào?


觀自在菩薩。行深//般若波羅蜜多//時。


= Bồ Tát Quán tự Tại, khi hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa,...(Theo đây, hình dung từ 深 bổ ngữ cho động từ 行)
Hay là:
觀自在菩薩。行//深般若波羅蜜多//時。照見五蘊皆空。度一切苦厄。
= Bồ Tát Quán Tự Tại, khi thực hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu, ...
(Hiểu thế này thì 深 làm định ngữ cho danh từ 般若波羅蜜多)


Kính xin các bạn cho biết ý kiến để mình hiểu thêm.

Để có thể trả lời được câu hỏi này, chúng tôi  mời chú Đỗ Bảo xem giúp bản chữ Phạn để có thể có một cách nhìn gần với bản Phạn hơn, vì bản kinh này được dịch từ bản Phạn. Và chú đã trả lời như sau:
 || namaḥ sarvajñāya||
āryāvalokiteśvarabodhisattvo gambhīrāyāṁ prajñāpāramitāyāṁ caryāṁ caramāṇo vyavalokayati sma| pañca skandhāḥ, tāṁśca svabhāvaśūnyān paśyati sma||
Hai chữ tô đậm bên trên có cùng cách(/sự kiện (vị trí)). Vậy thì chữ thâm = gambhīrāyāṁ đi theo thật danh từ ở cách "vị trí" prajñāpāramitāyāṁ.
Chữ Thâm Hán ngữ là tính từ phải được đọc theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không được hiểu/đọc như một trạng từ đi cùng với động từ Hành.
Con hi vọng đã trình bày rõ vấn đề.
Kính
Q.-Bảo

Thứ Ba, 6 tháng 8, 2013

Từ ngắt câu bạch văn


Thắng Nguyễn Đức 06:36 Ngày 06 tháng 8 năm 2013
Xin được hỏi thêm: ngoài ra "bạch văn" còn có những quy định, dấu hiệu gì để báo hiệu thay cho dấu chấm, dấu phết không ? («Độc cổ nhân thư, bất ngoại hồ chính cú đậu, thẩm tự nghĩa, thông cổ văn giả tá. Nhi tam giả chi trung, thông giả tá vưu yếu.» 讀古人書不外乎正句讀審字義通古 文假借而三者之中通假借尤要 (Đọc sách người xưa [cần chú ý] không ngoài [ba điều]: Đọc đúng [phạm vi] câu văn [tức là ngắt câu cho đúng bởi cổ văn viết không chấm câu, gọi là bạch văn 白文], tra xét đúng nghĩa chữ, và tinh thông chữ giả tá trong cổ văn. Trong ba điều ấy, tinh thông giả tá là tối quan trọng).
正句讀 chánh cú đậu: Làm sao để "chánh cú đậu"?

Thường thì theo sự để ý của chúng tôi, nếu thấy những chữ như: , , , , , , thì tạm  ngắt câu ngay đó để xem hiểu được câu văn chăng. Nếu trong câu nói là lời nói dứt câu.

Vì những từ này thuộc trợ từ khẳng định ngữ khí, nên thường cuối câu để nghe ra khí nhấn mạnh, đấy, chứ, chăng, ư…tựa như có dấu chấm than ngay đó. 
危乎高哉!
君無疑矣!
Sau thành thói quen, gặp những từ mang tính trợ từ ngữ khí, khi đọc qua ước lượng chỗ ngắt câu.

Ngoài ra có những chữ đầu câu như: , , 且夫thì biết có ngắt câu trước chữ đó.

Hoặc thấy những từ đứng đầu câu nói như: , , , , … thì để ý biết câu sau đó là câu nói.

Lâu dần thành quen, chúng tôi nghĩ sự học cần thời gian thâm nhập.
Ban đầu đối với “bạch văn” rất khó nhận ra câu ngắt ở đâu, sau thì quen với tên riêng, địa danh, điển cố mới khả dĩ ít hiểu lầm khi dịch.

Tuy biết là vậy, nhưng đôi khi đọc tới đọc lui vẫn không biết ý câu ra sao cả. Vì mỗi bản văn, nếu chúng ta không hiểu rõ vấn đề đang nói trong đó, thì khó mà hiểu cho đúng. Như bây giờ cho chúng ta đọc một bản văn khoa học, thì khó mà hiểu nói gì!

Có lẽ chuyên phạm vi nào mới có thể hiểu tương đối chính xác bản văn trong phạm vi đó.

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

Thảo luận 1


Thắng Nguyễn Đức06:22 Ngày 04 tháng 8 năm 2013

Xin được đặt câu hỏi đầu tiên như sau, nhờ quý thầy phân tích cho:



 ((Câu ý động của tính từ: 吾妻之美我者//私我也; 吾妾之美我者//畏我也; 客之美我者欲求于我也 (Vợ ta xem ta là tốt đẹp, ấy là lòng riêng tư đối với ta; thiếp ta xem ta là tốt đẹp, ấy là vì sợ ta; khách xem ta là tốt đẹp, ấy là muốn cầu cạnh ở ta.)
- Đề nghị phân tích chữ : trong câu này chữ là loại từ gì, dịch sát nghĩa là sao, nếu không có chữ thì câu văn ấy có rõ nghĩa không ?
Nhờ quý thầy xem cho, bởi vì trước chữ đã có chữ ( ở đây là loại động từ dục = muốn) :

Chúng tôi tạm hiểu chữ hữu有khi là phó tcó nghĩa “cố ý”, nó đóng vai trò trạng ngữ cho động từ. Có thể hiểu ý như sau: ấy là muốn cố ý cầu cạnh nơi ta.
Còn chữ dụctheo thiển ý chúng tôi chỉ là trợ động từ năng nguyện, đứng trước một động từ để biểu thị ý nguyện mà thôi.

Nhờ chữ mà câu văn rõ ý hơn, nếu không có chữ câu nhẹ hơn, muốn cầu cạnh nhưng không cố ý cầu cạnh lắm.


 客之美我欲有求于我 = khách cho ta đẹp, ấy là muốn có cầu cạnh ở ta vậy. )) Theo tôi chỉ cần viết: 客之美我者欲求于我也 là đủ rồi, không cần có chữ làm gì cho thêm nặng nề câu văn.

客之美我欲有求于我 = khách cho ta đẹp, ấy là muốn có cầu cạnh ở ta vậy
Kết cấu “giả…dã” thuộc về kết cấu chữ giả.
chủ + + vị +

điều mà khách cho là ta đẹp muốn cố ý cầu nơi ta vậy
hoặc hiểu: khách cho là ta đẹp đó

Văn xưa có những chữ ngày nay chúng ta cảm thấy dư, vì đó là những chữ giúp biết nơi đó là ngắt câu, vì văn xưa thường là bạch văn (văn không có chấm phết như bây giờ), nếu bạn đọc một đoạn văn không có ngắt câu thì những chữ đó rất cần thiết để mình hiểu ý người viết nói gì.

Thật tình mà nói văn chương trong Chiến Quốc Sách chúng tôi cũng khó mà hiểu tường tận! Chỉ dám lạm bàn đôi chút.